Tháng 1 năm 2022 (lần thứ 1) “Ở bên cạnh một ai đó: Việc sống cùng người khác là như thế nào? Tại sao lại “làm tình nguyện”? (1)” / 2022年1月 (第1回)「誰かのそばに向かうこと: 他のひとと共に生きるとはどういうことだろう、なぜ「ボランティア」をするのだろう(1)」


住みやすい日本を創るための情報発信番組
HÃY AN NHIÊN MÀ SỐNG
2022年1月 (第1回)「誰かのそばに向かうこと: 他のひとと共に生きるとはどういうことだろう、なぜ「ボランティア」をするのだろう (1)」
Tháng 1 năm 2022 (lần thứ 1) “Ở bên cạnh một ai đó: Việc sống cùng người khác là như thế nào? Tại sao lại “làm tình nguyện”? (1)”

皆さん、こんにちは。今回はベトナム夢KOBEのAnh ThưとTakayaが日本に暮らすベトナム人に役立つ情報をお伝えします。
Xin chào quý vị và các bạn! Anh Thư và Takaya của VIETNAM yêu mến KOBE xin được tiếp tục chia sẻ những thông tin hữu ích cho người Việt hiện đang sinh sống tại Nhật Bản trong chương trình ngày hôm nay.

1995年に阪神・淡路大震災が発生してから、2022年1月17日で丸27年です。これまでベトナム語番組では、阪神・淡路大震災に関する番組を放送してきました。
Kể từ ngày trận đại động đất Hanshin Awaji năm 1995 xảy ra, tính đến ngày 17 tháng 1 năm 2022 là tròn 27 năm. Chương trình tiếng Việt cho đến nay cũng đã phát sóng những số liên quan đến trận đại động đất Hanshin Awaji.

2018年1月「95年の阪神・淡路大震災/ 地震」/ Tháng1 năm 2018 “Động đất Hanshin – Awaji năm 1995”

2019年1月「『1.17KOBEに灯りを in ながた』におけるボランティアのためのフォーの炊き出し」/ Tháng 1 năm 2019 “Sự kiện thắp nến Kobe in Nagata 17/1 và hoạt động tình nguyện nấu phở hỗ trợ tình nguyện viên”

2020年1月「罹災証明書」/ Tháng 1 năm 2020: “Giấy chứng nhận thiệt hại do thiên tai”

2020年2月「ベトナム難民1世の震災の記憶」/ Tháng 2 năm 2020 “Ký ức về Động đất của những người Việt Nam tị nạn thế hệ thứ nhất”

2020年3月「震災の記憶の次世代への継承」/ Tháng 3 năm 2020 “Việc kế thừa ký ức về động đất của thế hệ tiếp theo”

2020年9月「ベトナム語番組『チャオ・カック・バン』の経験」 / Tháng 9 năm 2020 “Kinh nghiệm làm chương trình bằng tiếng Việt có tên gọi là “Chào các bạn”

2021年1月 (第1回)「阪神・淡路大震災を経験して」 / Tháng 1 năm 2021 (lần thứ 1) “Trải nghiệm về trận đại động đất Hanshin Awaji”

2021年6月 (第1回)「震災と私: 日本に住む海外の方への思い」 / Tháng 6 năm 2021 (lần thứ 1) “Động đất và tôi: Cảm nghĩ dành cho những người nước ngoài sống tại Nhật”

2021年7月 (第1回)「震災と私 (2): たった一つの命を守る準備 食べ物編」 / Tháng 7 năm 2021 (lần thứ 1) “Động đất và tôi(2): Chuẩn bị để bảo vệ mạng sống – Chuẩn bị về thực phẩm“

これまでの番組では、阪神・淡路大震災を経験された方のお話を中心にお伝えしてきましたが、さらに、私たち一人ひとりがどのように行動することができるのかを考えることも重要です。1月の番組では、災害・防災に関わる活動をしている方をゲストに迎えて、今、私たちにはどのようなことができるのかを考えていきます。
Các số phát sóng tính đến nay, chúng tôi đã chia sẻ nội dung chính là những câu chuyện của khách mời từng trải qua thảm họa đại động đất Hanshin Awaji, hơn nữa, nhắn gửi điều quan trọng đó là mỗi người trong chúng ta nên suy nghĩ xem có thể hành động như thế nào. Chương trình tháng 1 này chúng tôi chào đón một vị khách, người đang hoạt động tích cực trong lĩnh vực phòng chống thảm họa thiên tai, bây giờ sẽ cùng suy nghĩ và chia sẻ với chị ấy một số câu chuyện.

今回のゲストは、佐々木美和さんです。Takayaが佐々木さんと知り合ったのは10年前、大学1年生の時でした。当時から、佐々木さんは地域の活動に参加していました。その後、被災地においてボランティアをしています。
Vị khách trong chương trình lần này là bạn Sasaki Miwa. Takaya biết Sasaki cách đây 10 năm khi còn là sinh viên đại học năm 1. Lúc ấy, Sasaki đã đang tham gia vào các hoạt động của khu vực địa phương. Sau đó, cô ấy còn hoạt động tình nguyện tại vùng chịu thảm họa thiên tai.

● 佐々木さんのお話 / Câu chuyện của chị Sakaki
佐々木美和と申します。よろしくお願いします。現在,私は,水害,津波,地震などで被災した地域と,その土地でご縁ができた方に,ボランティアで訪問させていただいています。
Xin chào. Tôi tên là Sasaki Miwa. Hiện tại, tôi đang có cơ hội được tới thăm những người mà mình có duyên gặp gỡ tại khu vực và địa phương chịu thiên tai như lũ lụt, sóng thần, động đất v.v. với tư cách tình nguyện.

私は学者ではありません。本日は,私が被災している現場に訪問するようになるまでを,皆さんに少しご紹介させていただきます。
Tôi không phải là một học giả. Hôm nay tôi xin giới thiệu với mọi người đôi chút về hành trình bản thân được đi thăm những nơi đang chịu thiệt hại từ thiên tai.

私は広島生まれです。私の先祖は,広島で原爆の被災前からずっと,広島の地に暮らしてきました。
Tôi sinh ra ở Hiroshima. Tổ tiên gia đình tôi đã từng sống tại Hiroshima kể từ trước khi Hiroshima bị đánh bom nguyên tử

私が小学校5年生のころ,父の仕事の関係で,広島から,アメリカ西海岸のトーレンスTorranceへ,少しのあいだ移り住みました。
Khi tôi học tiểu học lớp 5, do công việc của bố nên chuyển sang bờ Tây nước Mỹ khu vực Torrace sinh sống trong một thời gian ngắn.

私は英語が話せませんでした。トーレンスTorranceにあった教会に英語の教室があり,私と兄はそこで英語を学びました。
Tôi đã không nói được tiếng Anh. Vì có lớp học tiếng Anh trong nhà thờ ở Torrace nên tôi và anh trai đã theo học tại đó.

私は教会にあったその英語教室の先生を通じて,聖書の内容を見聞きするようになりました。英語の先生に伝道され,洗礼を受けました。
Thông qua giáo viên của lớp tiếng Anh đó trong nhà thờ, tôi dần đọc và nghe được nội dung của cuốn kinh thánh. Tôi được truyền đạo từ giáo viên tiếng Anh, và dự lễ rủa tội.
13歳で洗礼を受ける前から,私は,聖書の言葉を聞くようになってから,聖書に書かれているイエスの行動が,いつも気になりました。
Từ trước khi được rửa tội năm 13 tuổi, tôi nghe quen dần những từ ngữ trong kinh thánh, sau đó thấy quan tâm tới những hành động của chúa Jesus được viết trong kinh thánh.

聖書に書かれているイエスは,ひとが避けるような,傷ついていてほっておかれるひとにかぎって,いつも近づいていました。
Chúa Jesus được viết trong kinh thánh luôn đến gần với những con người thường bị người khác xa lánh, nhất là người bị tổn thương hay bị bỏ mặc.
イエスは,見た目とか職業が立派でないひと,痛みをもっていてつらいひと,病気のひとを避けず,近づいていました。
Chúa Jesus luôn tiến gần đến những người không có ngoại hình hay nghề nghiệp nổi bật, người ôm nỗi đau và thấy khổ tâm, ngài cũng không tránh bất cứ ai có bệnh tật.

こうしたイエスの姿が,13歳で洗礼を受けてからも,いつも気になりました。とはいっても,実践できるわけではありません。
Chính dáng vẻ này của chúa Jesus khiến tôi luôn thấy tò mò từ khi được rủa tội từ năm 13 tuổi. Cho dù vậy, tôi chưa chắc đã thực hiện được.

2010年,18歳,高校3年生のある時でした。寒い暗い中を制服のまま自転車で走っていました。ふと見ると,ポツンと街灯がついている下で,痩せた,初老に見える男性が立っていました。
Năm 2010, tôi 18 tuổi, là học sinh phổ thông năm 3. Trong đêm tối trời lạnh tôi chỉ mặc nguyên bộ đồng phục và chạy xe đạp. Bất chợt nhìn, dưới ánh đèn pin le lói tôi thấy một người đàn ông gầy gò trung niên đang đứng.

寒いのに,薄い服しか着ていらっしゃいませんでした。私はどうしたらよいかわからずに,男性をただじっと見ていました。
Lạnh như vậy mà ông ấy chỉ mặc lớp áo rất mỏng. Tôi chẳng biết phải làm sao nên chỉ nhìn chằm chằm ông ấy.

家に帰るとすぐに,母親に,布団がないか尋ねました。寒そうな男性に渡したかったからです。
Vừa về đến nhà, tôi hỏi mẹ xem nhà có chiếc chăn nào không. Tôi muốn đưa nó cho người đàn ông trông có vẻ đang lạnh đó.

その男性の話をすると,いつもはひとのことを考え行動するように促すはずの母が,なぜか不満そうに,否定的に反応し,私が男性のところへ行くのを止めようとしました。
Nói với mẹ về câu chuyện người đàn ông tôi nhìn thấy, nhưng tại sao mẹ tôi, người mà lúc nào cũng nghĩ cho người khác và chắc chắn phải ủng hộ hành động của tôi lại có vẻ bất mãn và một mực phản đối, cố gắng cản tôi đi đến chỗ người đàn ông kia.

私は混乱しながらも,思い立つようにひとりで男性のところへ行きました。しかし,男性はもういませんでした。
Tôi dù thấy bấn loạn, nhưng đã quyết đi tới chỗ của người đàn ông đơn độc kia. Vậy mà, ông ấy không còn ở đó nữa.

2011年3月11日,東日本大震災が起きた日,私は高校3年生で,大学受験へ向かっていました。受験へ向かう途中で,地震の影響により,乗っていた電車が止まりました。私は自分が何もできない小さな人間だと思い知らされました。
Ngày 11 tháng 3 năm 2011, khi xảy ra trận đại động đất phía Đông Nhật Bản, tôi là học sinh phổ thông năm 3, đang trên đường tới dự thi đại học. Giữa lúc ấy, do ảnh hưởng của động đất nên tàu điện đã dừng lại. Tôi biết rằng mình chẳng thể làm được gì khi đó, chỉ là một con người nhỏ bé.

私は,自分自身が大学を卒業して社会に出る際,無力な出あいの経験を通じて,どう生きるべきか決めかねていました。
Tôi, khi tốt nghiệp đại học và ra ngoài xã hội, thông qua những cuộc gặp gỡ không hề được giúp, vẫn chưa thể quyết định việc mình nên sống như thế nào.

大学卒業後,研究のコースで,「共生」を探求するコースを選びました。2016年4月14日,入学した直後に,熊本地震が起きました。私は熊本を訪問する機会が与えられました。
Sau khi tốt nghiệp đại học, tôi đã chọn khóa nghiên cứu để theo đuổi về chủ đề “sống cộng sinh”. Ngày 14 tháng 4 năm 2016, ngay sau khi nhập học, trận động đất Kumamoto xảy ra. Rồi sau đó tôi có cơ hội đến thăm Kumamoto.

2018年10月11日,私は大学の「共生」を探求するコースに入っていたおかげで,水害を経験したフィリピンを訪れる機会も得ました。
Ngày 10 tháng 11 năm 2018, nhờ việc tham gia khóa học nghiên cứu về “sống cộng sinh” ở trường đại học mà tôi nhận được cơ hội tới thăm Philippine, nơi có trải qua thảm họa lũ lụt

私はフィリピンで,被災した地域とそうでない地域の両方を訪れました。路上で寝っ転がる小さな子どもに出会ったり,教会の裕福でない子どもたち,路上に座りこんでいるおじさんと出あったりしました。
Tôi có đi thăm cả nơi chịu thiệt hại và nơi không chịu thiệt hại ở Philippine. Tôi đã gặp em nhỏ nằm trên đường, những em nhỏ trong nhà thờ chẳng khá giả gì, và gặp một chú ngồi trên đường.

ある日,カマリネスノルテのダエトという,ルソン島の北の町で,市場の方へ歩いていました。ふと見ると,橋のそばにおじちゃんが立っていました。フィリピンでは自分より年配の男性を,kuyaと呼びます。
Một ngày, tại thị trấn phía bắc của đảo Luson có tên gọi Camarines Norte Daet, tôi đi bộ hướng về phía chợ. Bất chợt nhìn, có một ông chú đứng bên cạnh cây cầu. Ở Philippine, người ta gọi người đàn ông trung niên hơn tuổi mình là kuya.

Kuya の露出した足は,肌がぼろぼろとしていました。kuyaはひとりでじっと立っていました。
Bàn chân trần lộ ra của kuya có phần da trầy rách. Kuya chỉ đứng im mãi có một mình.

話しかけようとしたのですけれど,kuyaには通じないようでした。近くのお店のスタッフで,若い男性が私の様子を見ていました。私は男性に,kuyaに話しかけてくれないかと尋ねました。
Tôi đã cố gắng bắt chuyện nhưng kuya có vẻ không hiểu. Anh nhân viên trẻ trong cửa hàng gần đó thấy dáng vẻ của tôi. Tôi hỏi anh ấy rằng anh có thể bắt chuyện với kuya giùm tôi không.

男性は,kuyaは酔っぱらっていて自分のほうが殴られてしまうよ,と私に言いました。
私はどうしようもなく,あきらめるしかなく,その場を離れ,歩き始めました。
Anh trai đó nói với tôi rằng kuya say rượu rồi bản thân bị đánh đập. Tôi chẳng biết phải làm thế nào, bế tắc,chỉ còn cách từ bỏ, tôi rời khỏi chỗ đó, bắt đầu đi bộ.

歩きながら,私は心も思いもはっきりしない気持ちでした。私は何もする術がなくkuyaからどんどん離れていくけれど,それでいいのでしょうか。そう責めるような思いでした。
Vừa đi tôi vừa có cảm giác con tim và đầu óc mình không tỉnh tảo. Tôi chẳng có cách gì giúp kuya, đi xa dần kuya nhưng có phải điều đó là đúng không. Một cảm giác tội lỗi đáng trách.

どうすべきかわからず,歩みを止めて 立ち止まりました。
Tôi chẳng biết làm gì thì tốt, rồi tôi dừng lại không bước tiếp nữa.

私は立ち止まった際,自分が持っているカバンの中を探りはじめました。絆創膏を見つけました。すぐに方向転換して,kuyaのところに戻りました。
Tôi cứ đứng mãi, sau đó bắt đầu lục tìm trong ba lô. Và tôi tìm thấy băng gạc. Chuyển hướng, tôi quay lại phía kuya.

Kuyaが足を怪我していたようなので,絆創膏を貼ってもいいか訊こうとしました。kuyaと私は目が合いました。
Có vẻ như chân ông bị thương nên tôi hỏi kuya xem mình dán miếng băng lên có được không. Kuya và tôi có chạm mắt nhau.

私はかがんで絆創膏を貼りました。kuyaは目を合わせてくれました。kuyaはびっくりしていたようでした。私はkuyaのそばに寄り添っていました。
Tôi ngồi cúi xuống dán miếng băng. Kuya nhìn tôi. Kuya có vẻ bất ngờ. Sau đó tôi đứng một lúc bên cạnh kuya.

2019年2月4日でした。私はそのkuyaと過ごした小さな出来事を忘れることはできません。
Đó là ngày 4 tháng 2 năm 2019. Tôi không thể quên sự việc nho nhỏ đã cùng trải qua với kuya đó.

その日からなんとなく私の人生も変わったように思いました。私が出あったのは,自分の言葉が通じる国の人ではありませんでした。その地域では,人々から避けられていたといえるでしょう。私の人生のあり方に影響を与えたのは,そうした,ひとにうとんじられていたkuyaの存在があります。
Tôi thấy như đời mình có thay đổi sau cái ngày đó. Sự gặp gỡ của tôi không phải với người nói cùng ngôn ngữ với mình. Tại nơi ấy, người tôi gặp đang bị xa lánh bởi những người khác. Điều gây ảnh hưởng đến cuộc đời tôi, chính là sự xuất hiện của kuya, người bị xung quanh xa lánh.

しばらくして,橋の向こうからkuyaがいた方を振り返りました。遠くの方に,kuyaがとっことっこと歩いていくのが見えていました。
Sau một lúc, từ phía cây cầu tôi ngoảnh lại hướng kuya. Từ đằng xa, tôi thấy kuya bước đi tập tễnh.
フィリピンから帰って,今年私はこの「共生」を考えるコースと大学を卒業しました。
Trở về từ Philippine, hiện tôi đã tốt nghiệp khóa nghiên cứu về “sống cộng sinh” và đại học.

私は人生の目的として,他者を気遣う言葉の実践を願っています。ひとから避けられ,抑圧されているひと,難民(「寄留者」,気にも留められていない人)と出あい,共に生きることです。私自身も今後,いつでも,ひとからのけものにされる「寄留者」になるかもしれません。聖書には次のように書いてあります。
Mục tiêu sống của tôi chính là hy vọng rằng mình có thể thực hiện được những lời dạy về hành động vì người khác. Đó chính là gặp gỡ và cùng sống với những người bị người khác xa lánh, bị áp bức, người tị nạn (“dân tạm cư”, người không được quan tâm chú ý). Từ nay về sau, chính bản thân tôi cũng vậy, bất cứ lúc nào cũng có thể trở thành “dân tạm cư” bị người khác xa lánh. Trong kinh thánh có ghi lại điều như sau.

「あなたがたの神、主は神々の中の神、主の中の主、偉大で勇ましい畏るべき神、偏り見ることも、賄賂を取ることもなく、孤児と寡婦の権利を守り、寄留者を愛してパンと衣服を与えられる方である。 だから寄留者を愛しなさい。あなたがたもエジプトの地で寄留者だったからである。」(申命記 10:17~19)。
“Vì ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, là Thần các thần, là Chúa các chúa, là Thiên Chúa vĩ đại, dũng mãnh, khả úy, là Đấng không thiên vị ai và không nhận quà hối lộ, là Đấng bảo vệ quyền lợi cho cô nhi quả phụ, và yêu thương dân tạm cư, cho họ bánh ăn áo mặc. Vì vậy anh em phải yêu thương dân tạm cư, vì anh em đã từng là dân tạm cư ở đất Ai-cập.” (Sách Đệ nhị luật, Kinh thánh cựu ước chương 10: 17-19)

現在,私は,東北や九州,千葉といった被災地を神戸から訪問しながら,ベトナムにいる孤児の,里親ボランティアに仕えています。神戸国際支縁機構という一般社団法人のボランティアをしながら,子どもたちの里親のボランティアをさせていただいています。
Hiện tại, tôi vừa từ Kobe đến thăm những vùng chịu thiệt hại thảm họa như Tohoku, Kyushu và Chiba. Bên cạnh đó cũng tham gia tình nguyện làm cha mẹ nuôi của cô nhi sống ở Việt Nam. Tôi đang hoạt động tình nguyện tại tổ chức pháp nhân có tên Cơ quan hỗ trợ quốc tế Kobe và làm cha mẹ nuôi cho các em nhỏ.
今日の続きを,次回,皆さんと考えていければ感謝です。次回もよろしくお願い申しあげます。
Sự tiếp nối của ngày hôm nay xin được suy nghĩ cùng quý vị trong số tới, tôi xin chân thành cảm ơn. Lần tới hy vọng mọi người cũng sẽ giúp đỡ tôi.

● Anh Thuの感想 / Cảm nhận của Anh Thư
Mình cảm thấy ngưỡng mộ chị Sasaki bởi vì chị ấy không chỉ suy nghĩ cho người khác mà còn hoạt động tích cực để giúp đỡ cho nhiều người gặp khó khăn. Như chia sẻ của chị ấy trong câu chuyện, mình nghĩ mỗi người chúng ta may mắn được sống trên đời này nên yêu thương lẫn nhau và trân trọng những cuộc gặp gỡ, những duyên lành đến với mình.
私は佐々木さんに敬意を表したいと思います。彼女は他の人のことをいつも考えているだけではなく、困っている人たちを助けるために様々な活動に参加しています。佐々木さんの話を通して、幸いにもこの世に生まれてきた私たちはお互いに愛したり助け合ったりしてそれぞれの出会いやいい縁を大切にした方がいいのではないかと思います。

● Takayaの感想 / Cảm nhận của Takaya
皆さんの生活の中でも、自分にとって異質な人と出会う経験はあると思います。その人と関わってみたいと思うことがあっても、なかなか勇気が出ないこともあります。そんな時、一歩踏み出す勇気が自分から湧いてくることもあれば、誰かに背中を押してもらうこともあります。今回、佐々木さんの場合は聖書との出会いが、佐々木さんの行動の支えになって、フィリピンでのkuyaと関わろうとする行動につながっていたのだと思います。どうしたらいいか迷った時に相談できる人や、指針をくれるものがいつもある人もいるし、そうではない人もいます。一人ひとり支えとなるものは違うと思いますが、この番組も誰かの助けになったり、行動しようというきっかけになったりしたら嬉しいです。
Tôi nghĩ trong cuộc sống của mọi người, ai cũng có trải nghiệm gặp gỡ người khác mình. Dù cho có muốn thử làm quen với họ xem sao đi chăng nữa thì cũng có lúc không đủ dũng khí để thực hiện điều đó. Lúc ấy, tự bạn có khi cảm thấy đủ mạnh dạn để bước ra 1 bước, nhưng cũng có khi ai đó sẽ cổ vũ bạn để bạn hành động. Lần này, ở trường hợp của chị Sasaki, sự gặp gỡ với cuốn kinh thánh, đã trở thành yếu tố hỗ trợ cho hành động của chị ấy, và tôi nghĩ nó gắn kết với hành động làm quen với kuya ở Philippine. Có người sẽ luôn tìm thấy ai đó để nghe tư vấn và cho lời khuyên khi gặp bối rối, nhưng cũng có người chẳng có ai như vậy. Tôi nghĩ chỗ dựa của mỗi người là khác nhau, và chương trình này nếu có thể trở thành điểm tựa của ai đó để người ấy lấy làm động lực hành động thì thật vui biết mấy.

それではまた次回、番組でお会いしましょう。
Chương trình đến đây là kết thúc. Xin chào tạm biệt và Hẹn gặp lại!