Tháng 9 năm 2021 (lần thứ 1) “Trường hợp thực tập sinh người Việt Nam đã mang bầu và sinh con tại Nhật” / 2021年9月(第1回)「日本で妊娠して出産したベトナム人技能実習生の事例」


住みやすい日本を創るための情報発信番組
HÃY AN NHIÊN MÀ SỐNG
2021年9月(第1回)「日本で妊娠して出産したベトナム人技能実習生の事例」
Tháng 9 năm 2021 (lần thứ 1) “Trường hợp thực tập sinh người Việt Nam đã mang bầu và sinh con tại Nhật”

皆さん、こんにちは。今回はベトナム夢KOBEのThuyとTakayaが日本に暮らすベトナム人に役立つ情報をお伝えします。
Xin chào quý vị và các bạn! Thủy và Takaya của VIETNAM yêu mến KOBE xin được tiếp tục chia sẻ những thông tin hữu ích cho người Việt hiện đang sinh sống tại Nhật Bản trong chương trình ngày hôm nay.
これまでの番組でも、日本での子育てについてお伝えしてきました。今回は「コムスタカ―外国人と共に生きる会」の代表で、外国人の支援を行ってきた中島眞一郎さんをゲストにお迎えして、日本で妊娠して出産したベトナム人技能実習生の事例を紹介していただきます。
Từ trước tới nay thì chương trình cũng đã từng nói về chủ đề nuôi con tại Nhật. Hôm nay, chúng tôi chào đón anh Nakashima Shinichiro – Chủ tịch “Nhóm Kumustaka – Đồng hành với người ngoại quốc” đến để có những chia sẻ về trường hợp thực tập sinh người Việt Nam mang bầu và sinh con tại Nhật.

※ コムスタカの情報は以下のホームページから見ることができます。
Có thể xem thông tin về Nhóm Kumustaka từ trang home page dưới đây.
・日本語 / Tiếng Nhật: http://www.kumustaka.org/
日本語のページにはベトナム語での情報も掲載されています。
Ở trang hiển thị tiếng Nhật cũng có ghi thông tin bằng tiếng Việt.
・English: http://www.kumustaka.org/English/index.html

● 中島さんの自己紹介 / Giới thiệu bản thân của anh Nakashima
わたしは、コムスタカ―外国人と共に生きる会の代表をしている中島眞一郎といいます。九州の熊本市に住んでいます。仕事は、主に外国人のビザや在留資格や国籍など扱う行政書士をしています。主に熊本県内や九州内にくらす在住外国人からの人権相談を35年以上、担当しています。その多くが移住女性です。2009年7月から会の代表をしています
Tôi là Nakashima Shinichiro – là chủ tịch “Nhóm Kumustaka – Đồng hành với người ngoại quốc”, hiện đang sinh sống tại thành phố Kumamoto ở vùng Kyushu. Công việc của tôi là một luật sư hành chính, chuyên làm thủ tục giấy tờ liên quan đến visa, tư cách lưu trú và quốc tịch cho người nước ngoài. Trong hơn 35 năm, tôi cũng phụ trách tư vấn nhân quyền cho những người sinh sống tại thành phố Kumamoto cũng như trong vùng Kyushu, chủ yếu trong số đó là những người phụ nữ là dân di cư. Tôi bắt đầu làm chủ tịch Hiệp hội từ tháng 7 năm 2009.

● コムスタカ―外国人と共に生きる会の紹介 / Giới thiệu về “Nhóm Kumustaka – Đồng hành với người ngoại quốc”
コムスタカは、フィリピン語で「お元気ですか」という意味です。今から36年前に当時、主にダンサーやシンガーとして日本に働きに来ていたフィリピン女性の中で、賃金未払やパスポートの取り上げ、売春強要などで、逃げてきたフィリピン女性を助ける活動を一人でしてたカトリックのポール神父を助けることから始まりました。
Nhóm Kumustaka trong tiếng Philippines có nghĩa là: “Có khỏe không?”. 36 năm về trước, Hiệp hội bắt đầu từ hoạt động giúp đỡ cha xứ Paul, là người đã một mình giúp đỡ một phụ nữ Philippines đến Nhật với vai trò là một vũ công và ca sĩ, sau đó bị lừa không được trả tiền lương, bị tịch thu hộ chiếu, bị ép bán dâm và may mắn đã chạy thoát được.
ポール神父は、私たち日本人に、「アジアから働きに来ている外国人が、契約通りの正当な給料をもらえなかったり、苦しんだり、ひどい目にあっているのは、日本の社会に問題があるからです、日本人の貴方たちがしなければならないことは、これら苦しんでいる外国人を守り、正当な扱いを受けられるように、監視し、日本の社会をただすことです」と説きました。そして、熊本に住むカトリックの信者とクリスチャンでない市民運動をしていた人々で、1985年9月に「滞日アジア女性の問題を考える会」を結成しました。
Cha Paul đã nói với người Nhật chúng tôi là: “Việc những người nước ngoài là người Châu Á đến Nhật làm việc nhưng lại không được trả lương đúng như theo hợp đồng, gặp nhiều khó khăn và nhiều điều tồi tệ là do vấn đề của xã hội Nhật Bản. Việc mà những người Nhật các bạn phải làm là bảo vệ những người nước ngoài đang gặp khó khăn, giám sát để họ được tiếp nhận một cách thích hợp và khắc phục tình trạng này trong xã hội Nhật Bản”. Sau đó, vào tháng 9 năm 1985, các tín đồ Công giáo sống ở Kumamoto và những người tham gia vào phong trào công dân không theo đạo Công giáo đã thành lập “Hiệp hội suy nghĩ về các vấn đề của phụ nữ châu Á tại Nhật Bản”.
1980年代後半は、ダンサー、シンガーがとして働きに来るアジアからの女性たちの相談が中心でしたが、1990年代にはいると、日本人と国際結婚したアジアからの女性とその子どもの相談が多くなってきました。相談に来る外国人の国籍や相談内容も多様化してきたので、1993年4月から会の名称を「コムスタカ―外国人と共に生きる会」に改称して、現在に至っています。
Vào nửa cuối những năm 1980, phần lớn chủ yếu là những cuộc tư vấn với người phụ nữ Châu Á đến Nhật làm vũ công và ca sĩ. Bước vào thập niên 1990, những cuộc tư vấn với người phụ nữ Châu Á đã kết hôn với người Nhật và tư vấn với con của họ trở nên nhiều hơn. Vì quốc tịch của người đến để xin tư vấn cũng như nội dung tư vấn trở nên đa dạng hóa nên từ tháng 4/1993, Hiệp hội được đổi tên thành “Nhóm Kumustaka – Đồng hành với người ngoại quốc” và duy trì cho đến hiện nay.
会の活動は、1在住外国人からの無料の人権相談、2移民や難民などの外国人問題に関する講演会や映画会や、セミナーなどイベント開催、3熊本県や熊本市などの行政機関への政策や施策の提言、4在住外国人の行政機関などへの申請手続きや訴訟(家庭裁判所や地方裁判所など)の同行支援、5福岡出入国在留管理局や大村入国管理センターとの意見交換会で、外国人への対応の改善や要望活動。
Hoạt động của hội là:
1) Tư vấn miễn phí về nhân quyền cho người nước ngoài tại Nhật
2) Tổ chức các sự kiện như hội thảo, diễn thuyết, chiếu phim … liên quan tới vấn đề của người nước ngoài là dân di cư hoặc dân tị nạn
3) Đề xuất các chính sách và biện pháp tới cơ quan chính quyền tỉnh Kumamoto và thành phố Kumamoto
4) Hỗ trợ người nước ngoài tại Nhật trong việc làm các thủ tục hồ sơ và thủ tục tố tụng đến cơ quan hành chính (tòa án gia đình, tòa án địa phương …)
5) Cải thiện phương pháp đối ứng với người nước ngoài và đề xuất nguyện vọng tại buổi trao đổi ý kiến với Cục quản lý lưu trú xuất nhập cảnh Fukuoka và Trung tâm quản lý nhập cảnh Omura

2020年には、約400件の相談が在住外国人からありました。国籍別では、フィリピン人からの相談が1番多く、2番目が中国人からの相談ですが、ここ数年、ベトナム人の技能実習生やネパール人留学生からの相談も増えてきました。そして、妊娠した技能実習生からの相談も増えています。今日は、日本で妊娠したベトナム人技能実習生の2つのケースにお話しします。
Trong năm 2020 đã có khoảng 400 lượt xin tư vấn đến từ người nước ngoài ở Nhật. Nếu chia theo quốc tịch thì số lượt xin tư vấn nhiều nhất đến từ người Philippines, đứng thứ 2 là từ người Trung Quốc. Tuy nghiên trong những năm gần đây, số lượt xin tư vấn đến từ thực tập sinh người Việt Nam và du học sinh người Nepal có xu hướng gia tăng. Bên cạnh đó, số lượt xin tư vấn từ thực tập sinh đã mang bầu cũng tăng lên. Ngày hôm nay, tôi sẽ chia sẻ với các bạn câu chuyện của 2 bạn thực tập sinh người Việt Nam đã mang bầu ở Nhật.

● 日本で妊娠して出産したベトナム人技能実習生(マイさん仮名)のケース / Trường hợp của bạn Mai (tên nhân vật đã được thay đổi) – thực tập sinh người Việt Nam đã mang bầu và sinh con tại Nhật

(1) 相談の経緯 / Quá trình tư vấn
2019年12月中旬に、カトリックのシスターから妊娠中のベトナム人技能実習生のことで相談が入り、仕事が終わった後で、シスターと共に彼女と会って話をしました。彼女から、「妊娠していることに気が付くのが遅くなったこと、妊娠していることを会社や監理団体にいうと、会社を首になって、ベトナムへ送り返されると思い、怖くて言えなかったこと」を聞きました。彼女の希望は日本で出産し、産休を取って技能実習も継続したいというものでした。その日の夜に緊急に「保護してほしい」と彼女から連絡があり、コムスタカで一時保護することになりました。
Trong tháng 12/2019, nhận được tin từ một vị sơ trong nhà thờ rằng có yêu cầu xin tư vấn đến từ thực tập sin người Việt Nam đang mang bầu nên sau khi kết thúc công việc, tôi đã cùng vị sơ đó đi đến gặp cô gái ấy để nói chuyện. Cô ấy nói rằng đến khi biết rằng mình có bầu thì đã muộn, sợ rằng nếu nói chuyện có bầu với công ty hoặc nghiệp đoàn thì có thể bị đuổi việc rồi bị bắt về Việt Nam nên không thể nói ra. Nguyện vọng của cô ấy là sinh con ở Nhật, sau khi nghỉ chế độ thai sản thì sẽ tiếp tục quay lại làm công việc của thực tập sinh. Ngay trong đêm hôm đó, chúng tôi đã nhận được cuộc gọi khẩn cấp từ cô ấy với nội dung: “Hãy bảo vệ tôi!”, từ đó tạm thời được Nhóm Kumustaka bảo hộ.
翌日、会社や監理団体と連絡を取り、妊娠している事情と日本で出産したいという彼女の希望を伝えました。翌々日に監理団体と会社、本人とその支援者や通訳者が集まり、交渉して、その合意を得ることができました。
Ngày hôm sau, chúng tôi đã liên lạc tới công ty và nghiệp đoàn của cô ấy để nói về sự việc cô ấy có bầu và mong muốn được sinh con tại Nhật. Ngày hôm sau nữa, người của nghiệp đoàn, người của công ty, bản thân người thực tập sinh đó cùng với người hỗ trợ và người phiên dịch đã cùng nhau ngồi trao đổi và có được ý kiến chung.

(2) 子どもの出産後の経緯 / Quá trình sau khi sinh con
出産予定日は2020年1月下旬でしたが、彼女は妊娠34週の2019年12月下旬に子どもを出産しました。前日から腹部が痛み出し、夜中我慢できずに近くの病院に連れて行ってもらったところ、35週目で出産となりましたが、母子とも無事でした。そして、退院後の母子の生活と育児ができるために、支援者の協力で熊本市内でアパートを借りることができました。
Ngày dự kiến sinh là cuối tháng 1/2020 nhưng cô ấy đã sinh con vào cuối tháng 12/2019, khi đó đứa trẻ mới được 34 tuần. Cơn đau bụng bắt đầu từ ngày hôm trước, đến giữa đêm thì không thể chịu đựng được nên đã được đưa đến bệnh viện gần nhà. Cô ấy đã sinh con ở tuần thai thứ 35 nhưng mẹ con đều bình an vô sự. Sau đó, để có thể sống và nuôi con sau khi xuất viện thì nhờ có sự giúp đỡ từ người hỗ trợ mà cô ấy đã có thể thuê một căn hộ trong thành phố Kumamoto.
1月上旬に、福岡入管の担当者に現状報告と在留資格の取扱いについて相談したところ子どもの在留資格については、とりあえず子どもの在留資格の取得は「特定活動」での申請を勧められました。同年1月中旬に入管へ、子どもの在留資格(特定活動)の取得申請を行い、受理されました。子どもの両親は、子の出生届、子のパスポートの作成、両親の婚姻届をベトナムの福岡領事館へ同年1月下旬に提出し、そして、2月下旬に、おそらく日本で外国人技能実習性の間に生まれた子どもとして初めての「特定活動」の在留資格の取得(在留期間4月)が認められました。また母親についても、「技能実習2号 ロ」の在留資格の期間更新(在留期間 1年間)が認められました。
Đầu tháng 1, sau khi báo cáo sự việc và trao đổi về vấn đề tư cách lưu trú với người phụ trách ở Cục quản lý xuất nhập cảnh Fukuoka thì chúng tôi nhận được lời khuyên về việc làm đơn xin tư cách lưu trú là “Hoạt động đặc định” cho đứa trẻ. Giữa tháng 1 cùng năm, chúng tôi đã nộp hồ sơ xin tư cách lưu trú cho đứa trẻ (Hoạt động đặc định) lên Cục và đã được thụ lý. Cuối tháng 1 cùng năm, bố mẹ của đứa trẻ đã lên Lãnh sự quán Việt Nam ở Fukuoka để đăng ký kết hôn và làm giấy khai sinh, hộ chiếu cho đứa trẻ. Sau đó đến cuối tháng 2, thì đứa trẻ nhận được tư cách lưu trú Hoạt động đặc định với thời hạn lưu trú là 4 tháng. Đây là trường hợp đứa trẻ đầu tiên được sinh ra trong thời gian mẹ đang là thực tập sinh tại Nhật nhận được cấp tư cách lưu trú Hoạt động đặc định. Về phía người mẹ cũng được gia hạn thời gian lưu trú thêm 1 năm và chuyển sang tư cách lưu trú là Thực tập sinh số 2 Ro.

(3) 出産後の育児から帰国と職場復帰 / Từ lúc nuôi con đến khi về nước và quay lại nơi làm việc
母親は、2019年12月下旬から2020年2月まで産休を取得して休職していました。また同じく技能実習生であった子どもの父親も、母子の住むアパートに同居し、実習先の職場へ通勤して、夜の育児介護、週末の休日の育児介護をしました。子どもをベトナムにつれて帰る予定の2月末までを、母親の残っている有給休暇も使いながら技能実習生夫婦と、カトリックの女性信徒の皆さんや支援者の力で子どもの育児を乗り越えました。2020年2月末、子どもを連れて、両親はベトナムへ一時帰国し、3月上旬に再来日し、無事職場復帰することができました。
Người mẹ nghỉ chế độ thai sản từ tháng 12/2019 đến tháng 2/2020. Bố của đứa trẻ, cũng là thực tập sinh, cùng sống cùng hai mẹ con, đi làm ở công ty tiếp nhận và chăm con vào buổi tối cũng như các ngày nghỉ cuối tuần. Vì có kế hoạch cho đứa trẻ về Việt Nam vào cuối tháng 2 nên người mẹ vừa dùng số ngày nghỉ phép còn lại để nghỉ và bằng chính nỗ lực của hai vợ chồng người thực tập sinh cũng như nhận được sự giúp đỡ từ những nữ tín đồ Công giáo và người hỗ trợ mà đã vượt qua được nỗi khó khăn của việc chăm con. Đến cuối tháng 2/2020, vợ chồng người thực tập sinh dẫn đứa trẻ về Việt Nam rồi khoảng đầu tháng 3 thì quay lại Nhật. Sau đó đã quay trở lại làm việc tại công ty một cách bình thường.

● 誰にも相談できず、一人で双子の子どもを死産し、警察から死体遺棄罪の容疑逮捕された技能実習生のケース / Trường hợp của thực tập sinh không trao đổi với bất kỳ ai, một mình sinh con khiến 2 đứa trẻ song sinh chết, bị cảnh sát bắt vì tình nghi vứt bỏ xác thai nhi.

・起訴されたベトナム人技能実習生 リンさんのケース
Trường hợp của Linh – thực tập sinh Việt Nam bị khởi tố
技能実習生として来日し、技能実習生の男性と交際して妊娠したリンさんは、妊娠が発覚すれば、母国ベトナムに帰国させられることを恐れ、誰にも相談できず、2020年11月15日午前中、自宅の自室で双子を出産しましたたが、死産でした。
Linh đến Nhật với tư cách là thực tập sinh rồi có quen biết với một thực tập sinh nam khác dẫn đến có thai. Khi phát hiện mình mang thai, vì lo sợ sẽ bị đuổi về nước nên đã không nói với ai, một mình sinh con tại nhà vào sáng ngày 15/11/2020 nhưng không may cặp song sinh đã chết khi vừa được sinh ra.
リンさんは翌日、雇用主に病院へ連れていかれ、出産したことを認めますが、11月19日に死体遺棄容疑で熊本県警に逮捕されました。そして大きくマスコミで報道されました。そのマスコミ報道を受け、リンさんの支援のために弁護士を雇い、面会に行ってもらい、事情を聞きました。検察官にリンさんを起訴しないように署名を集め、短期間600名を超える署名が集まりました。
Ngày hôm sau, Linh đã được người của công ty dẫn tới bệnh viện và thừa nhận đã sinh con. Vào ngày 19/11, Linh đã bị cảnh sát tỉnh Kumamoto bắt giữ vì tình nghi đã vứt bỏ xác thai nhi. Sau đó các phương tiện truyền thông đã đưa tin rộng rãi về sự việc này. Sau khi nhận được thông tin từ giới truyền thông, chúng tôi đã thuê luật sư để hỗ trợ Linh. Luật sư đến gặp Linh và nghe sự tình. Chúng tôi đã thu thập chữ ký để kêu gọi các công tố viên không truy tố Linh và hơn 600 chữ ký đã được thu thập trong một thời gian ngắn.
リンさんは、2020年11月15日に双子を出産しますが、死産でした。リンさんは泣き声もなく反応しない双子に名前を付け、弔いのことばを書いたメモを入れて、部屋にあった2つの段ボールを二重にしてその中にタオルにくるんで遺体を入れ居室のキャスター付棚の上にその段ボールを安置していました。翌日午前中に、雇用主が呼びに来て病院へ連れていかれます。出産後から病院へ連れていかれるまでのその24時間ほどの行為が、死体遺棄罪に問われています。
Linh đã hạ sinh một cặp song sinh vào ngày 15/11/2020, nhưng 2 đứa trẻ chết ngay sau khi được sinh ra. Linh không một tiếng khóc than mà đặt tên cho 2 đứa trẻ khi đó đã không có phản ứng rồi nhét một tờ giấy ghi những lời thương tiếc vào trong. Linh lấy 2 chiếc thùng bìa carton có trong phòng rồi lồng vào nhau, sau đó cho thi thể 2 đứa trẻ được quấn vải vào trong rồi đặt thùng bìa đó trên giá để đồ trong phòng khách. Vào sáng ngày hôm sau, người của công ty gọi đến và dẫn đi bệnh viện. Thời gian từ lúc sinh đến lúc được đưa tới bệnh viện chỉ khoảng 24 tiếng nhưng bị tình nghi thành hành vi vứt bỏ xác thai nhi.
しかし、12月10日に熊本検察庁により同罪で起訴しました。私たちは、弁護士と共に検察官の起訴に抗議する記者会見をしました。リンさんは約2ヵ間警察署で勾留されていましたが、2021年1月21日に、保釈金200万円で保釈が認められ釈放されました。保釈が実現したことで、弁護側が、リンさんの意思により、有罪を認めて情状酌量による執行猶予を得る方針から無罪主張へ方針を変えたため同年2月2日の刑事裁判の第一回公判は、裁判所の職権で取消しとなりました。
Tuy nhiên, văn phòng công tố Kumamoto đã truy tố Linh vào ngày 10/12 vì tội danh này. Chúng tôi đã cùng luật sư mở cuộc họp báo để phản đối quyết định khởi tố của công tố viên. Linh đã bị giam giữ tại đồn cảnh sát khoảng 2 tháng nhưng được thả vào ngày 21/1/2021 sau khi được đóng 200 vạn yên tiền bảo lãnh. Vì Linh đã được thả và dựa theo nguyện vọng của Linh, phía luật sư đã thay đổi phương châm từ thừa nhận phạm tội và xin được hoãn thời gian thi hành án do hoàn cảnh sang phương châm xin được tuyên vô tội. Do đó, phiên xét xử sơ thẩm vào ngày 2/2 cùng năm đã được hủy bỏ theo quyết định của bồi thẩm đoàn.
リンさんは、従前の実習先が「マスコミが取材に来て迷惑する」として継続的実習を断られたため、保釈後に、新しい実習先を見つけ、転籍の手続きをへて技能実習を再開しました。 リンさんは、技能実習を継続しながら、刑事裁判の被告人として「私は子どもの遺体を隠したり捨てたり放置していないので無罪です」と無罪を主張していきました。しかしながら、2021年7月20日の熊本地方裁判所の判決は、懲役8月、執行猶予3年という有罪判決でした。リンさんは、この判決を不服として福岡高裁に控訴して争っています。
Vì bị từ chối tiếp tục công việc làm thực tập sinh tại công ty tiếp nhận cũ do công ty bị giới truyền thông làm phiền xin phỏng vấn nên sau khi được thả, Linh đã tìm được công ty tiếp nhận mới và sau khi hoàn thành xong thủ tục chuyển công ty thì Linh đã bắt đầu lại công việc của thực tập sinh tại công ty mới. Tiếp tục làm việc trong vai trò là thực tập sinh, Linh đã khằng định mình không có tội với tư cách là một bị cáo trong phiên tòa hình sự rằng: “Tôi không có tội vì tôi không giấu hay vứt bỏ xác con tôi”. Tuy nhiên, theo phán quyết của toàn án địa phương Kumamoto vào ngày 20/7/2021 thì Linh bị kết án 8 tháng tù giam nhưng được hoãn thi hành án 3 năm. Linh không hài lòng với phán quyết này nên đã kháng cáo lên Tòa án tối cao Fukuoka.
この事件は、そもそも、死体遺棄罪が本件に適用できるのかという問題と共に、この事件の背景には、帰国させられることを恐れて妊娠・出産を相談できない技能実習生の抱える問題及び、孤立出産する女性、特に死産の場合への刑事罰の適用の可否という重要な問題があります。リンさんへの有罪判決はおかしいという多くの日本人の声が寄せられ、無罪を求める裁判への支援のための多くの寄付金が寄せられています。
Về sự việc này tồn tại những vấn đề như trường hợp này có bị liệt vào tội bỏ xác hay không, bối cảnh xảy ra sự việc là do người thực tập sinh lo lắng về việc mang thai và đẻ con thì sẽ bị về nước nên không dám nói với ai, và một vấn đề quan trọng nữa là có thể áp dụng hình phạt đối với người phụ nữ tự sinh con và đặc biệt là trường hợp đứa trẻ chết khi vừa sinh ra hay không. Nhiều người Nhật đã lên tiếng cho rằng việc kết án của tòa dành cho Linh là không hợp lý nên nhiều khoản tiền quyên góp đã được gửi đến để ủng hộ một phiên tòa yêu cầu tuyên vô tội dành cho Linh.

● Thuyの感想 / Cảm nhận của Thủy
普通の外国人女性にとっても日本で妊娠、出産、子育てをすることはかなり難しいことなので、技能実習生の女性にとっては、その難しさは倍増すると言えます。彼女たちは常に帰国されられることに恐れを抱いているので、誰ともそれを共有することができず、不幸な出来事につながってしまいます。日本のすべての都道府県に「コムスタカ―外国人と共に生きる会」のような外国人を支援する団体があればいいと思います。今日この番組を聴いている人たちが、生活で何か困難に直面している場合は、支援を受けられるようにベトナム夢KOBEに連絡してくれることをThuyは望んでいます。
Việc mang thai, sinh con và nuôi con tại Nhật của một người phụ nữ nước ngoài bình thường đã là một việc khá vất vả nên đối với các bạn thực tập sinh nữ thì sự khó khăn lại càng tăng gấp bội. Vì họ vốn luôn mang trong mình nỗi sợ hãi sẽ bị đuổi về nước nên không dám chia sẻ với ai dẫn đến những việc làm đáng tiếc. Nếu như ở mỗi tỉnh trên nước Nhật có các tổ chức hỗ trợ người nước ngoài như “Nhóm Kumustaka – Đồng hành với người ngoại quốc” thì tốt biết mấy. Thủy hi vọng rằng, những bạn đang lắng nghe chương trình ngày hôm nay, nếu đang gặp bất kỳ khó khăn nào trong cuộc sống thì hãy liên lạc tới VIETNAM yêu mến KOBE để được nhận hỗ trợ.

● Takayaの感想 / Cảm nhận của Takaya
今日の収録を通して、事例のお二人は、支援を受けることができたからこそ、複数の選択肢を知ることができ、その中から現在のやり方を選ぶことができた(リンさんの場合も声をあげることができた)という点が重要だと思いました。
Thông qua buổi thu âm ngày hôm nay, tôi thấy rằng điểm mấu chốt trong trường hợp của hai người chính là nhờ vào việc nhận được sự hỗ trợ, biết thêm nhiều lựa chọn và có thể chọn ra cách làm như hiện tại (Trường hợp của Linh cũng đã có thể lên tiếng)
まず、身近な技能実習生や近くにいる人とのつながりを作っていくことが重要ですが、その上で、自分とは異なる境遇の人とつながることも重要だと思います。また、技能実習生の周りの人で、技能実習生からの相談を受けることになるかもしれない人も、コムスタカやベトナム夢KOBEのように、さらに別の相談先があるということを知ることが重要だと認識しました。例えば、法律に詳しい方へと支援のネットワークがつながっていけば、マイさんの事例のように選択肢を広げることができます。
Trước tiên, điều quan trọng là tạo được sự kết nối với những người thực tập sinh và mọi người xung quanh. Sau đó, bản thân cũng cần kết nối với những người có môi trường và hoàn cảnh khác nhau. Bên cạnh đó, tôi cũng nhận ra rằng việc những người xung quanh thực tập sinh hay những người có thể nhận được yêu cầu cần trao đổi từ thực tập sinh nếu biết thêm những nơi có thể trao đổi hỗ trợ như Nhóm Kumustaka hay Việt Nam yêu mến Kobe thì cũng là điều vô cùng quan trọng. Ví dụ, nếu mạng lưới hỗ trợ được kết nối tới những người am hiểu pháp luật thì sẽ có thêm nhiều sự lựa chọn giống như trường hợp của Mai.
そして、技能実習生同士がベトナム語で共有している情報の中にも、合法的な支援につながる情報が含まれていき、「常識」を変化させていくことが重要だと感じました。そういう意味でも、私たちはベトナム語での発信を続けていきたいと思います。
Và trong những thông tin mà những bạn thực tập sinh chia sẻ với nhau bằng tiếng Việt thì cũng có bao gồm nhiều thông tin dẫn đến sự hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau một cách hợp pháp, từ đó làm thay đổi “Nhận thức chung” cũng là một điều quan trọng. Với ý nghĩa đó, chúng tôi mong muốn được tiếp tục phát sóng chương trình bằng tiếng Việt.

それではまた次回、番組でお会いしましょう。
Xin chào tạm biệt và Hẹn gặp lại!